![]() |
Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu đã tác động mạnh mẽ đến người nông dân Việt Nam (ảnh minh họa). |
Từ năm 2024, tình trạng hạn hán kéo dài ở Tây Nguyên khiến năng suất cà phê giảm đáng kể, trong khi vùng đồng bằng sông Cửu Long phải đối mặt xâm nhập mặn vào sâu nội đồng. Những hiện tượng này đặt nông dân trước thách thức lớn, vì sinh kế của họ bị ảnh hưởng trực tiếp từ thời tiết.
Giữa bối cảnh ấy, người nông dân Việt Nam không ngồi yên bất lực. Thay vào đó, họ đã thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo và quyết tâm thích ứng. Từ thay đổi giống cây, mô hình canh tác, tới áp dụng công nghệ, họ đang dần chuyển mình từ sản xuất truyền thống sang một nền nông nghiệp thông minh, bền vững cả về hiệu quả kinh tế, môi trường lẫn phòng chống rủi ro.
Biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt
Hiện tượng nắng nóng, đặc biệt ở Tây Nguyên và ĐBSCL, đã làm lượng mưa tháng khô chỉ đạt 40–60% so với trung bình năm. Mực nước các hồ chứa giảm sâu, người dân mất hoặc hạn chế nguồn nước tưới. Cây cà phê, hồ tiêu bị khô héo, lúa thì không thể duy trì độ ẩm cần thiết trong giai đoạn quan trọng.
Với tỷ lệ mặn xâm nhập sâu trong mùa khô tại ĐBSCL, độ mặn trong đồng ruộng có thể tăng gấp 2–5 lần so với mức chịu đựng của cây lúa. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất, khiến người dân chuyển đổi canh tác hoặc chịu thiệt hại nặng.
![]() |
Xâm nhập mặn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp của người nông dân. |
Ở miền Bắc, các trận mưa đá bất ngờ vào vụ Xuân đã làm vỡ nát các nương chè, quả đào, vải bán sỉ vụ Tết. Kèm theo đó là lũ lụt bất ngờ phá sập ruộng vườn, ao cá, đe dọa mùa vụ chưa thu hoạch hoặc mới gieo trồng.
Không những vậy, nắng nóng kết hợp độ ẩm thất thường dễ tạo môi trường thuận lợi cho sâu bệnh như sâu xanh, bệnh rỉ sắt, cháy lá. Vì thiếu kỹ thuật kiểm soát và dự báo tương tác thời tiết sinh học, nông dân thường gặp thiệt hại nặng mà không chuẩn bị kịp.
Từ các yếu tố trên, có thể thấy rõ rằng, sản xuất nông nghiệp Việt Nam đứng trước “hai đầu giông bão” đó là rủi ro do thời tiết và áp lực từ chi phí đầu tư ngày càng tăng, vốn, vật liệu, thiết bị… nếu không có giải pháp căn cơ sẽ khiến nhiều hộ nông dân trở nên dễ bị tổn thương.
Linh hoạt, thích ứng bằng công nghệ và mô hình mới
Theo khảo sát, hiện nay để đối phó với hạn mặn, nhiều nơi như An Giang, Long An đã chuyển đất lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây chịu muối như dừa, xoài, đu đủ. Các giống lúa ngắn ngày mới như ST24, ST25, giống chịu hạn được chọn trồng để giảm thời gian chịu đựng khắc nghiệt và tăng năng suất. Ở miền Trung, các giống lúa sớm thu kết hợp xen canh ớt, sả giúp tận dụng phụ phẩm nông nghiệp, giảm rủi ro và gia tăng thu nhập.
Nhiều nông dân tại các địa phương đã linh động đẩy vụ gieo sớm hoặc muộn vài tuần để tránh đỉnh hạn hoặc mưa lũ gây ảnh hưởng đến cây trồng, con giống.
Một thực tế cho thấy nông dân ứng dụng tưới nhỏ giọt trên cà phê, hồ tiêu ở Gia Lai giúp tiết kiệm lên tới 40% nước. Hệ thống AWD (Alternate Wetting and Drying) ở miền Bắc và ĐBSCL đã giảm được 30% lượng nước tưới cho lúa, đồng thời cắt giảm khí mê-tan đáng kể. Hệ thống đất trữ nước, kênh mương nội đồng được nâng cấp song song với việc đào ao trữ, giúp khắc phục nhu cầu nước vào thời kỳ cao điểm khô hạn.
![]() |
Nông dân ứng dụng tưới nhỏ giọt trên cà phê, hồ tiêu ở Gia Lai giúp tiết kiệm lên tới 40% nước. |
Nhiều nơi triển khai ứng dụng dự báo thời tiết, SMS cảnh báo hạn, lũ, qua điện thoại, loa xã, Zalo. Nhiều nơi nông dân đã đăng ký theo dõi tin dự báo thời tiết, chi phí vài chục ngàn đồng mỗi tháng, nhưng thu lợi gấp nhiều lần nhờ tránh được gieo trồng sai thời điểm.
Tính từ 2014, Việt Nam đã áp dụng các mô hình CSA như trồng rừng, tưới tiết kiệm, quản lý dinh dưỡng cây trồng, bảo hiểm dựa trên chỉ số khí tượng. Nhiều hợp tác xã ở Thái Bình, Nghệ An đã phối hợp với chính quyền và tổ chức quốc tế để triển khai cải cách canh tác kết hợp quản lý rủi ro thiên tai.
Một biện pháp khác hiện đang được áp dụng là, bảo hiểm dựa trên chỉ số khí tượng (mưa, nhiệt độ, xâm nhập mặn) giúp người dân được hỗ trợ tài chính khi thiên tai xảy ra. Dùng tín dụng xanh bao gồm cho vay ưu đãi mua thiết bị tưới, giống cây trồng… cũng đang được mở rộng, giảm áp lực chi phí đầu tư.
![]() |
Dùng tín dụng xanh bao gồm cho vay ưu đãi mua thiết bị tưới, giống cây trồng… cũng đang được mở rộng, giảm áp lực chi phí đầu tư. |
Nhiều hộ nông dân hiện nay không chỉ trồng trọt mà kết hợp chăn nuôi, nuôi thủy sản và trồng rừng, vừa tạo nguồn thu dự phòng, vừa tái chế phế phụ phẩm. Mô hình trồng rau hữu cơ kết hợp nuôi gà, giúp cải thiện dinh dưỡng, tạo chuỗi khép kín.
Nhiều kết quả khả quan nhưng còn rào cản
Theo đó, thông qua tưới tiết kiệm, giống ngắn ngày, lượng nước sử dụng giảm 30–40%, giảm khí mê-tan đồng thời bảo vệ môi trường. Điều này giúp nông dân giảm chi phí năng lượng và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Hạn chế được thất thu do thời tiết, nhiều hộ thực hiện CSA và ứng dụng thông tin khí hậu đã tăng năng suất 10–15%, với mức thu nhập tăng thêm 100–200 triệu đồng mỗi năm.
Áp dựng kỹ thuật như tưới nhỏ giọt, AWD, dự báo thời tiết được lan tỏa và áp dụng rộng rãi. Nông dân đã thể hiện khả năng học hỏi nhanh và thích nghi với cách thức canh tác mới. Các HTX, tổ hợp tác nông nghiệp đi đầu đã kết nối người dân, doanh nghiệp, chính quyền xây dựng chuỗi hàng hóa bền vững, từ sơ chế đến xuất khẩu, thu lợi tốt hơn.
![]() |
Qua nhiều phương pháp được áp dụng nông dân đã đạt được những kết quả khả qua, tuy nhiên vẫn còn những rào cản cần phải vượt qua (ảnh ,minh họa). |
Tuy vậy, hiện nay còn những rào cản cần vượt qua. Đơn cử chi phí đầu tư và vốn chưa đủ, thiết bị tưới, hệ thống cảnh báo, bảo hiểm khí tượng… đều cần đầu tư lớn. Nhiều hộ nhỏ lẻ không có đủ vốn và khó tiếp cận tín dụng. Sự thiếu hụt chuyên gia nông nghiệp, đặc biệt ở vùng sâu, miền núi, khiến kiến thức và kỹ thuật đến tay người dân chậm và thiếu vững chắc.
Đối với chinh sách, phần lớn đang áp dụng theo mô hình nhỏ lẻ, do vậy cần phải kết nối, liên thông từ giống, kỹ thuật, tài chính đến đầu ra thị trường. Hiện nay, dù đã phổ biến smartphone, nhưng hạ tầng mạng, hiểu biết CNTT còn hạn chế ở vùng nghèo, ảnh hưởng đến độ phủ của các ứng dụng dự báo, quản lý trang trại.
Hướng đi cho tương lai cho nông nghiệp bền vững
Tiếp tục củng cố, tăng đào tạo kỹ thuật, hỗ trợ nông dân lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt/AWD, tiếp tục nhân rộng trong nhóm cán bộ nòng cốt, cần mở rộng mô hình này vì đã chứng minh được hiệu quả rõ dệt. Thúc đẩy tín dụng và bảo hiểm khí tượng, cung cấp gói vay ưu đãi, bảo hiểm phù hợp từng loại cây, từng vùng đảm bảo an tâm cho nông dân đầu tư chuyển đổi.
Xây dựng hệ thống cảnh báo trực tiếp đến người dân, kết nối IoT, loa xã, Zalo, SMS để cảnh báo thời tiết theo từng thửa ruộng. Tăng cường khuyến nông và truyền thông cộng đồng qua đó thành lập cộng đồng học tập trong HTX, tổ hợp tác, hỗ trợ cán bộ xã triển khai kỹ thuật và chuyển giao thông tin, công nghệ.
![]() |
Cần tăng cường khuyến nông và truyền thông cộng đồng qua đó hỗ trợ cán bộ xã triển khai kỹ thuật và chuyển giao thông tin, công nghệ (ảnh minh họa). |
Không dừng lại ở đó, vấn đề phát triển chuỗi nông nghiệp xanh bền vững cần được ưu tiên bằng việc xây dựng chuỗi liên kết có truy xuất nguồn gốc, chứng nhận hữu cơ; kết nối doanh nghiệp, HTX, người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Trước sự khắc nghiệt ngày càng gia tăng từ biến đổi khí hậu, người nông dân Việt Nam đang thực sự chứng minh sự thích ứng linh hoạt và sáng tạo. Từ thay đổi giống, áp dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm, dự báo khí hậu, đến chuyển đổi sinh kế, họ đã dần chuyển mình từ phương thức canh tác truyền thống sang nông nghiệp thông minh, thích ứng khí hậu (CSA).
Điều quan trọ nhất là chính sách, công nghệ và vốn cần được kết nối, đồng bộ và tiếp tục hỗ trợ nông dân. Khi đó, họ sẽ không chỉ vượt qua giai đoạn khắc nghiệt, mà còn xây dựng bền vững cho nền nông nghiệp Việt, góp phần vào mục tiêu phát triển nông thôn mới, đảm bảo an ninh lương thực và hội nhập thị trường toàn cầu.