Thứ năm 24/07/2025 00:56Thứ năm 24/07/2025 00:56 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: toasoan@tapchihuucovietnam.vn

Tag

Thuốc bảo vệ thực vật sinh học: Kinh nghiệm Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brazil

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Bùng nổ đăng ký sản phẩm thuốc BVTV sinh học ở các nước. Tại Hàn Quốc, cho phép bán hàng online thuốc BVTV, nghiêm cấm bán hàng online thuốc BVTV hóa học.
Mông dân Thái Lan chủ yếu sử dụng thuốc BVTV sinh học để bổ sung và thay thế một phần thuốc hóa học. Ảnh minh họa.

Mông dân Thái Lan chủ yếu sử dụng thuốc BVTV sinh học để bổ sung và thay thế một phần thuốc hóa học. Ảnh minh họa.

Thái Lan lập kênh ‘đăng ký nhanh’ thuốc sinh học

Thái Lan là một trong những nước sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hóa học khá nhiều trong sản xuất nông nghiệp. Năm 2020, Thái Lan nhập khẩu trên 98 ngàn tấn thuốc BVTV hóa học, tương đương 945 triệu USD, trong khi đó nhập khẩu thuốc BVTV sinh học khoảng 1,6 triệu USD, mặc dù có một số thuốc BVTV sinh học được sản xuất trong nước.

Giảm sử dụng thuốc BVTV hóa học, loại bỏ các hoạt chất thuốc hóa học độc hại, tăng sử dụng thuốc sinh học được Thái Lan quan tâm, đặc biệt trong khoảng thời gian 10-15 năm gần đây.

Hiện tại, nông dân Thái Lan chủ yếu sử dụng thuốc BVTV sinh học để bổ sung và thay thế một phần thuốc hóa học. Nghiên cứu tại Thái Lan đã chỉ ra một số khó khăn chính trong việc thúc đẩy sử dụng thuốc BVTV sinh học bao gồm: Hiệu lực của thuốc sinh học thấp hơn và chậm hơn thuốc hóa học; Thời gian bảo quản thuốc ngắn hơn và chất lượng thuốc dễ bị giảm do điều kiện bảo quản; Chuyên tính hẹp và không được phong phú về chủng loại của thuốc BVTV sinh học để đáp ứng nhu cầu của người sản xuất; Người sản xuất có nhận thức và hiểu biết hạn chế trong sử dụng thuốc BVTV sinh học. Ngoài ra, nguồn nhân lực về nghiên cứu, phát triển công nghệ thuốc BVTV sinh học của Thái Lan vẫn còn hạn chế.

Để thúc đẩy phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học, Thái Lan có quy định về kênh đăng ký nhanh (Fast track registration) đồng thời có sáng kiến ban hành Danh mục thuốc sinh học “độ rủi ro thấp” (minimum risk biopesticides). Năm 2021, số lượng các hoạt chất thuốc sinh học thuộc Danh mục này đã tăng từ 5 lên 17. Đối với các sản phẩm được sản xuất từ các hoạt chất trong Danh mục thuốc sinh học độ rủi ro thấp không cần phải thử nghiệm độc lý học (Toxicology test exempted), vì vậy thời gian chờ đăng ký được rút ngắn xuống còn khoảng 6-12 tháng.

Đối với các loại thuốc sinh học khác, thời gian thực hiện các thủ tục để được đăng ký tại Thái Lan là khoảng 18- 24 tháng, tương tự như ở Mỹ, Úc, nhanh hơn so với ở Nhật Bản và EU.

‘Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh’ ở Nhật Bản

Theo Mordor Intelligence (2023), thị trường thuốc BVTV sinh học của Nhật Bản có tổng giá trị năm 2023 khoảng trên 700 triệu USD, dự báo tăng trưởng 12%/năm giai đoạn 2023 - 2028. Nhật Bản là nước có chính sách khuyến khích sử dụng thuốc BVTV sinh học từ những năm 1950s, với lượng lớn, những năm gần đây đứng khoảng thứ 4 - thứ 5 trên thế giới (Tetsuo Tommy Wada, 2016).

Bộ Nông Lâm nghiệp Nhật Bản đã công bố 'Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh' vào năm 2021. Ảnh minh họa.

Bộ Nông Lâm nghiệp Nhật Bản đã công bố “Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh” vào năm 2021. Ảnh minh họa.

Bộ Nông Lâm nghiệp Nhật Bản (MAFF) đã sửa đổi Quy định về Hóa chất Nông nghiệp vào năm 2018 và quy định đánh giá lại tất cả các sản phẩm BVTV đã đăng ký tại Nhật Bản phù hợp với thông tin khoa học mới nhất. Chương trình đánh giá lại bắt đầu vào năm 2021, yêu cầu đánh giá lại tất cả các sản phẩm BVTV đã đăng ký cứ sau 15 năm. Các tổ chức, cá nhân đăng ký thuốc được thông báo về việc đánh giá lại trước 2 năm. Mặc dù một số loại thuốc BVTV sinh học đã được đăng ký, MAFF có kế hoạch thiết lập một hướng dẫn mới về thuốc BVTV sinh học, đồng thời đưa ra quy trình đánh giá lại đối với thuốc sinh học.

Năm 2021, MAFF đã công bố “Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh” với mục tiêu cải thiện năng suất và tính bền vững của lương thực, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản thông qua đổi mới. Tương tự như chiến lược “Từ trang trại đến bàn ăn” của châu Âu, “Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh” nhằm đạt được một số mục tiêu như không phát thải CO2, giảm 50% rủi ro hóa chất nông nghiệp; giảm 30% sử dụng phân bón hóa học vào năm 2050. Để duy trì các mục tiêu chiến lược, MAFF đang khuyến khích phát triển và giới thiệu thuốc BVTV sinh học cũng như các công nghệ liên quan dựa vào tự nhiên. Với việc thực hiện “Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh”, vai trò của thuốc BVTV sinh học trên thị trường nông nghiệp Nhật Bản dự kiến ​​sẽ ngày càng trở nên quan trọng.

Trong công tác quản lý thuốc BVTV sinh học, Nhật Bản rất coi trọng an toàn sinh học, chất lượng, hiệu quả của thuốc và vấn đề sở hữu trí tuệ.

Để thúc đẩy phát triển, ứng dụng các biện pháp sinh học, trong đó có việc sản xuất, sử dụng thuốc sinh học thay thế thuốc hóa học, Hội BVTV sinh học Nhật Bản (Japan Bio-control Association) đã được thành lập vào năm 2016, thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các tập đoàn, doanh nghiệp lớn đang sản xuất, cung ứng thuốc BVTV sinh học.

4 động lực thúc đẩy tăng trưởng thuốc BVTV sinh học ở Hàn Quốc

Kể từ năm 2001, việc sử dụng thuốc BVTV hóa học ở Hàn Quốc đã giảm dần sau khi tăng từ năm 1970 đến năm 1990. Năm 2020, 16.278 tấn thuốc BVTV đã được sử dụng, giảm so với 16.745 tấn của năm trước. Sự sụt giảm này được lý giải là do nông dân nhận thức rõ hơn về sự cần thiết sử dụng thuốc BVTV sinh học thay thế thuốc hóa học.

Năm 2019, giá trị thị trường thuốc BVTV của Hàn Quốc là 1,26 tỷ USD, trong đó thuốc sinh học là 0,3 tỷ USD. Giá trị thị trường thuốc BVTV sinh học của Hàn Quốc những năm gần đây tăng trưởng khoảng 5-10%/năm.

Các chất kích thích sinh học được Hàn Quốc coi là thuốc BVTV sinh học và được đánh giá là giải pháp mới. Ảnh minh họa.

Các chất kích thích sinh học được Hàn Quốc coi là thuốc BVTV sinh học và được đánh giá là giải pháp mới. Ảnh minh họa.

Động lực chính thúc đẩy tăng trưởng sản xuất và sử dụng thuốc BVTV tại Hàn Quốc bao gồm:

a) Chính sách tăng cường kiểm soát an toàn thực phẩm nông sản thông qua việc áp dụng hệ thống PLS (Positive List System); theo đó Hàn Quốc yêu cầu kiểm tra ATTP đối với 370 hoạt chất thuốc BVTV trên nông sản thực phẩm, bao gồm khoảng gần 240 hoạt chất được đăng ký tại Hàn Quốc và 134 hoạt chất chưa được đăng ký. Đối với các hoạt chất không được đăng ký tại Hàn Quốc, nước này áp dụng mức MRL mặc định là 0,01ppm hoặc thấp hơn. Quy định này đã khuyến khích việc sử dụng thuốc BVTV sinh học an toàn, không để lại dư lượng, đặc biệt ở giai đoạn cuối của cây trồng.

b) Hiện tượng kháng thuốc hóa học của nhiều đối tượng sinh vật hại cây trồng như: Bọ trĩ, nhện, nấm phấn trắng… đã khuyến khích người sản xuất sử dụng thuốc sinh học kết hợp hoặc thay thế thuốc hóa học do thuốc hóa học không có hiệu quả.

c) Sự xuất hiện của những sản phẩm thuốc BVTV sinh học mới, với dạng chế phẩm thuận tiện cho việc sử dụng, hiệu quả cao. Khoảng 10 năm trước, không ai tin rằng thuốc trừ sâu sinh học hoặc chất kích thích sinh học sẽ được bán với giá hơn 1 triệu USD mỗi năm dưới dạng một sản phẩm ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, một số sản phẩm đã chứng minh rằng định kiến này chắc chắn là sai. Một loại thuốc diệt nấm sinh học đã đạt doanh thu gần 10 triệu USD hàng năm và một số chất kích thích sinh học đã ghi nhận doanh thu hàng năm hơn 1 triệu USD. Thực tế này chứng tỏ rằng thuốc trừ sâu sinh học và chất kích thích sinh học đang ngày càng được coi trọng hơn và sử dụng rộng rãi, hiệu quả hơn tại Hàn Quốc.

d) Sự phát triển rộng rãi của hình thức giới thiệu và bán hàng online đã góp phần thúc đẩy sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học. Hàn Quốc quy định được phép bán thuốc BVTV sinh học online, trong khi đó hình thức bán hàng này không được phép đối với thuốc BVTV hóa học.

Một điều đáng chú ý là tại Hàn Quốc những năm gần đây, trên thị trường đã xuất hiện các chất kích thích sinh học (bio-stimulants). Các chất này cũng được Hàn Quốc coi là thuốc BVTV sinh học và đang được nông dân đánh giá cao, là một giải pháp mới trong lĩnh vực bảo vệ thực vật, đặc biệt là tăng khả năng chịu đựng của cây trồng đối với các điều kiện bất thuận như hạn hán, lũ lụt, thay đổi nhiệt độ cao hay thấp và nứt quả. Sự thành công của chất giữ nước trong đất (Smart Water) và chất chống nứt quả (Fitomaat) chứng tỏ xu hướng mới này đang ngày càng phát huy hiệu quả thực tế trong lĩnh vực sản xuất và ứng dụng thuốc BVTV sinh học ở Hàn Quốc.

Brazil: Bùng nổ đăng ký sản phẩm sinh học

Thị trường thuốc trừ sâu sinh học Brazil ước tính đạt khoảng 340 triệu USD vào năm 2021, nhưng dự đoán rằng thuốc trừ sâu sinh học có tiềm năng tăng 107% đến năm 2030, đạt khoảng 700 triệu USD. Đặc biệt, hơn 2,5 triệu ha trồng đậu tương ở Brazil đã được xử lý bằng thuốc sinh học phòng trừ tuyến trùng trong vụ mùa 2018/2019.

Tại Brazil, thuốc sinh học trừ tuyến trùng được sử dụng trên 90% diện tích trồng đậu tương và khoảng 70% tổng lượng thuốc sinh học trừ tuyến trùng được sử dụng trên đậu tương.

Thị trường thuốc BVTV sinh học của Brazil giai đoạn 2023 - 2028 được dự báo tăng trưởng 8.2%/năm.

Thị trường thuốc BVTV sinh học của Brazil giai đoạn 2023 - 2028 được dự báo tăng trưởng 8.2%/năm.

Năm 2013, chỉ có 107 loại thuốc trừ sâu sinh học được đăng ký tại Brazil. Năm 2023, số lượng sản phẩm sinh học được đăng ký ở Brazil là 502 chứng tỏ rằng xu hướng phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học rất mạnh mẽ tại quốc gia này. Thị trường thuốc BVTV sinh học của Brazil giai đoạn 2023 - 2028 được dự báo tăng trưởng 8.2%/năm.

Brazil có quy định cho phép sản xuất thuốc BVTV vi sinh ở quy mô trang trại (on-farm biopesticide production) với mục đích “phi thương mại” (non-commercial purpose) Người sản xuất để tự sử dụng không phải đăng ký thuốc, không cần chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, chỉ cần ghi chép nhật ký một số thông tin cơ bản quá trình sản xuất, sử dụng các chủng vi sinh có trong Danh mục đăng ký hoặc các chủng vi sinh bản địa.

nongnghiep.vn

Bài liên quan

Phát triển nông nghiệp xanh, bền vững là xu thế tất yếu

Phát triển nông nghiệp xanh, bền vững là xu thế tất yếu

Diễn đàn Nông nghiệp 2025 với chủ đề “Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chỉ đạo, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức chiều 16/7/2025, tại Hà Nội.
Cải thiện chất lượng và phát triển ngành sắn theo hướng xanh, bền vững

Cải thiện chất lượng và phát triển ngành sắn theo hướng xanh, bền vững

Hiện nay, cây sắn và các sản phẩm từ sắn là một trong 13 sản phẩm nông sản chủ lực của Việt Nam, xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn của Việt Nam đứng thứ 3 thế giới. Việc ứng dụng mô hình canh tác tuần hoàn và các công nghệ mới sẽ giúp gia tăng giá trị, cải thiện chất lượng và phát triển ngành sắn theo hướng xanh, bền vững.
Nông sản sạch xứ Nghệ: Tự tin vươn ra thị trường - Nhưng đã đủ sức cạnh tranh?

Nông sản sạch xứ Nghệ: Tự tin vươn ra thị trường - Nhưng đã đủ sức cạnh tranh?

Trong dòng chảy của nông nghiệp xanh – sạch, Nghệ An đang từng bước khẳng định vị thế với nhiều mô hình sản xuất nông sản an toàn, hữu cơ. Tuy nhiên, hành trình từ vùng nguyên liệu đến bàn ăn của người tiêu dùng vẫn còn nhiều thử thách. Câu hỏi đặt ra là: nông sản sạch xứ Nghệ đã thực sự sẵn sàng để chinh phục thị trường lớn, hay vẫn đang loay hoay trong chính “vườn nhà” mình?
Lâm Đồng đẩy mạnh nông nghiệp xanh, tuần hoàn hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng “0”

Lâm Đồng đẩy mạnh nông nghiệp xanh, tuần hoàn hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng “0”

Lâm Đồng là một trong những địa phương đi đầu trong thực hiện các cam kết tại Hội nghị COP26, đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 thông qua loạt giải pháp trọng tâm trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn đến ứng dụng năng lượng tái tạo và truy xuất nguồn gốc nông sản theo quy định EUDR của Liên minh châu Âu, tỉnh Lâm Đồng cho thấy quyết tâm mạnh mẽ trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng xanh và bền vững.
Du lịch xanh ở Cát Bà: Hướng đi bền vững cho "viên ngọc

Du lịch xanh ở Cát Bà: Hướng đi bền vững cho "viên ngọc' Vịnh Bắc Bộ

Cát Bà, hòn đảo lớn nhất trong quần thể gần 2.000 hòn đảo trên Vịnh Lan Hạ, từ lâu đã trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Với vẻ đẹp hoang sơ của những bãi biển cát trắng mịn, làn nước trong xanh, những dãy núi đá vôi hùng vĩ và Vườn Quốc gia đa dạng sinh học, Cát Bà hứa hẹn mang đến một kỳ nghỉ trọn vẹn với nhiều trải nghiệm khó quên.
Sáng tạo để thích ứng trước biến đổi khí hậu, hướng đến nền nông nghiệp bền vững

Sáng tạo để thích ứng trước biến đổi khí hậu, hướng đến nền nông nghiệp bền vững

Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu đã tác động mạnh mẽ đến Việt Nam, gây ra những hiện tượng thời tiết cực đoan chưa từng thấy, nắng nóng kéo dài trên 38 °C, hạn hán nặng ở Tây Nguyên và ĐBSCL, xâm nhập mặn lan rộng vào mùa khô, mưa đá và lũ bất thường ở miền Bắc và Trung.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Biến đất hoang hóa thành nông trại theo mô hình hữu cơ màu mỡ

Biến đất hoang hóa thành nông trại theo mô hình hữu cơ màu mỡ

Nhiều diện tích đất trồng lúa, hoa màu bị người dân bỏ hoang, chị Tống Thị Hiền đã mạnh dạn vận động các hộ dân dồn điền đổi thửa nhằm tích tụ đất đai, tạo ra cánh đồng mẫu lớn. Đến nay, 7ha của chị Hiền đã cho ra đời một nông trại sản xuất rau, củ, quả theo mô hình hữu cơ, tạo công ăn việc làm cho 20 lao động, thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
OCOP Đồng Nai: Chất lượng nâng tầm, thị trường mở rộng

OCOP Đồng Nai: Chất lượng nâng tầm, thị trường mở rộng

Với mục tiêu nâng tầm giá trị nông sản và phát triển kinh tế địa phương, Đồng Nai đang tích cực mở rộng đầu ra cho các sản phẩm OCOP (Chương trình Mỗi xã một sản phẩm). Tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, từ hỗ trợ chủ thể đăng ký sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu hàng hóa, mã số vùng trồng đến đẩy mạnh kết nối với các sàn thương mại điện tử và hệ thống bán lẻ hiện đại. Nhờ đó, các sản phẩm OCOP Đồng Nai không chỉ vươn xa mà còn khẳng định được vị thế trên thị trường.
Bắc Kạn: Áp dụng kỹ thuật sản xuất lúa hữu cơ giúp cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt

Bắc Kạn: Áp dụng kỹ thuật sản xuất lúa hữu cơ giúp cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt

Mô hình sản xuất lúa hữu cơ đã mở ra nhiều cơ hội phát triển cho nông nghiệp hàng hóa địa phương. Đây sẽ là tiền đề để tỉnh Bắc Kạn tiếp tục thực hiện các mô hình sản xuất hữu cơ, góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh.
Hỗ trợ nông dân chuyển hướng sang canh tác hữu cơ

Hỗ trợ nông dân chuyển hướng sang canh tác hữu cơ

Với lợi thế về đất đai, khí hậu trong sản xuất nông nghiệp, các cấp chính quyền và tổ chức đoàn thể đã tích cực tuyên truyền, hỗ trợ nông dân áp dụng quy trình chăm sóc khoa học, chuyển hướng canh tác hữu cơ. Nhờ đó, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm, bảo vệ môi trường và nguồn thu nhập cho nông dân.
Từ sản xuất rau sạch đến du lịch sinh thái: Hướng đi xanh cho nông nghiệp đô thị Đà Nẵng

Từ sản xuất rau sạch đến du lịch sinh thái: Hướng đi xanh cho nông nghiệp đô thị Đà Nẵng

Giữa nhịp sống đô thị sôi động của thành phố Đà Nẵng, những vườn rau xanh mướt ở Túy Loan và La Hường đang âm thầm viết nên câu chuyện chuyển mình của nông nghiệp đô thị hiện đại.
Sản xuất nông nghiệp xanh kết hợp du lịch trải nghiệm

Sản xuất nông nghiệp xanh kết hợp du lịch trải nghiệm

Đó là mô hình của anh Võ Vinh Ca - Chủ trang trại Ca Organic Farm ở huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định. Với mô hình này, gia đình anh có thu nhập tiền tỷ mỗi năm và tạo việc làm cho hơn 20 lao động tại địa phương. Nhiều năm liền, anh Ca được Hội Nông dân các cấp công nhận danh hiệu là nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh.
Ước mơ đưa thương hiệu rượu men lá vươn xa

Ước mơ đưa thương hiệu rượu men lá vươn xa

Hợp tác xã rượu men lá Thanh Tâm ở thôn Nà Pài, xã Bằng Phúc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn là đơn vị vừa nấu rượu men lá theo phương pháp truyền thống đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, vừa chăn nuôi gia súc theo hướng tập trung đem lại hiệu quả kinh tế cao
Đắk Nông công nhận 5 sản phẩm đạt OCOP 4 sao

Đắk Nông công nhận 5 sản phẩm đạt OCOP 4 sao

UBND tỉnh Đắk Nông vừa ban hành quyết định số 858/QĐ-UBND công nhận và cấp Giấy chứng nhận sản phẩm OCOP 4 sao thuộc Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tỉnh Đắk Nông năm 2025.
Người nâng giá trị sản phẩm hữu cơ cho cây ổi quê hương

Người nâng giá trị sản phẩm hữu cơ cho cây ổi quê hương

Nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm sạch ngày càng gia tăng. Nắm bắt xu hướng đó, chị Đỗ Thị Thanh Thúy (xã Hòa Phước, TP. Đà Nẵng) đã khởi nghiệp với sản phẩm ổi hữu cơ, góp phần lan tỏa lối sống xanh và tiêu dùng bền vững
Nông nghiệp hữu cơ ở Quảng Bình: Tiềm năng và thách thức

Nông nghiệp hữu cơ ở Quảng Bình: Tiềm năng và thách thức

Tỉnh Quảng Bình có nhiều tiềm năng mà thiên nhiên ban tặng để bà con nông dân nơi đây tiến hành sản xuất Nông nghiệp hữu cơ (NNHC), tạo ra những sản phẩm chất lượng và thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, khi làm nông nghiệp hữu cơ ở Quảng Bình cũng gặp phải những thách thức khó khăn cả chủ quan và khách quan…
Vịt quay mác Mật và Khâu nhục: Hai món ẩm thực đậm hương vị núi rừng Đông Bắc

Vịt quay mác Mật và Khâu nhục: Hai món ẩm thực đậm hương vị núi rừng Đông Bắc

Lạng Sơn, vùng đất địa đầu Tổ quốc, không chỉ nổi tiếng với những hang động kỳ vĩ, những phiên chợ vùng cao rực rỡ sắc màu mà còn níu chân du khách bởi một nền ẩm thực độc đáo, mang đậm hương vị núi rừng Đông Bắc. Trong số vô vàn món ngon ấy, vịt quay mác mật và khâu nhục nổi lên như một cặp đôi hoàn hảo, một bản hòa tấu hương vị vừa thơm lừng, đậm đà, vừa mềm tan, béo ngậy, gói trọn tinh túy của núi rừng và sự khéo léo của người dân xứ Lạng.
Từ Nhà báo “sống chết” với biển đảo: Đến hành trình đưa rau hữu cơ ra quần đảo Trường Sa

Từ Nhà báo “sống chết” với biển đảo: Đến hành trình đưa rau hữu cơ ra quần đảo Trường Sa

Lần đầu tiên, những mầm rau hữu cơ đã có mặt trên một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Khánh Hòa. Đây là kết quả của dự án tự nguyện được thực hiện bởi Viện Nghiên cứu và ứng dụng Nông nghiệp hữu cơ (thuộc VUSTA) kết hợp với Bộ Tư lệnh Hải quân với mong muốn giúp quân dân Trường Sa cải thiện cuộc sống và tạo hệ sinh thái hữu cơ có lợi trên các đảo, góp phần phủ xanh biển đảo quê hương.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2024 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính