![]() |
Hình ảnh những chiếc hộp, đĩa được làm từ mua cau ở địa phương |
Sinh kế xanh?
Để thực hiện thí điểm, đầu tiên chúng tôi đã chọn 5 hộ gia đình kinh doanh đồ ăn sáng trước khu vực cổng trường và 4 hộ gia đình chuyên trồng chuối, trồng cau để tập huấn, hướng dẫn phương pháp làm đĩa, hộp đựng đồ ăn từ nguồn nguyên liệu là lá chuối, lá bàng, bẹ cau thay cho các hộp xốp nhựa và để nhân rộng sáng kiến, chúng tôi đã phối hợp với Hội liên hiệp phụ nữ xã làm công tác tuyên truyền, vận động, tập huấn và chia sẽ phương pháp làm sản phẩm một cách đơn giản nhất theo các bước.
B1: Thu gom nguyên liệu lá chuối, lá bàng, bẹ cau; Làm sạch bằng việc rửa để đảm bảo vệ sinh; B2: Phơi héo các sản phẩm lá chuối, lá bàng, bẹ cau để đảm bảo độ dai, bền rồi phân loại lá, bẹ theo kích cỡ; B3: Dùng máy ép theo khuôn ép đĩa, hộp có sử dụng nhiệt ép thành các sản phẩm theo hình của khuôn ép; B4: Cắt phần dư thừa của hộp, đĩa theo khuôn mẫu, kích cỡ đã ép sẵn.
Các bước thực hiện khá đơn giản, giá thành rẻ có tính cạnh tranh cao so với các sản phẩm hộp xốp nhựa (đĩa từ lá chuối, lá bàng có giá thành 300 đồng/1 cái, hộp đựng từ mo cau có tính năng vượt chội không bị thấm nước với gía thành từ 2,000 đến 4,000/1 cái tùy theo kích cỡ và có thể sử dụng nhiều lần) phương pháp làm không đòi hỏi cao về khoa học, kỹ thuật, nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa phương, vừa tận dụng được thời gian nhàn dỗi, vừa tạo sinh kế công ăn việc làm cho một số hộ gia đình ở địa phương và góp phần vào công tác bảo vệ môi trường.
Tăng sản lượng muối, tăng thu nhập và câu chuyện tuần hoàn rơm, rạ.
Giải pháp tăng thêm thu nhập, cải thiện cuộc sống của các Diêm dân vùng sản xuất muối ven biển Quảng Phú cũng góp phần quan trọng vào công tác bảo vệ môi trường bởi muốn có nguồn muối sạch thì vấn đề đầu tiên là phải có nguồn nước biển sạch muốn làm được vậy thì tất cả các lực lượng trong xã hội phải chung tay bảo vệ môi trường tạo nên vùng sản xuất liên hoàn lúa- muối - thủy hải sản giúp người dân có nguồn sinh kế ổn định trước yêu cầu phát triển bền vững để ứng phó với đổi khí hậu.
Vận dụng nguyên tắc Vật lý màu đen là màu có khả năng hấp thụ ánh sáng tốt nhất trong tất cả các màu sắc, tôi đã thử nghiệm tận dụng nguồn nguyên liệu có sẵn ở địa phương là than rơm, rạ làm nghiên cứu thực nghiệm cải tiến bề mặt sân bê tông truyền thống màu bạc thành sân bê tông màu đen theo các bước như sau:
Bước 1: Thu gom rơm, rạ phơi khô (trước kia người dân thường vứt bỏ, đốt lộ thiên, xả khói bụi gây nên tình trạng ô nhiễm không khí); Bước 2: Đốt rơm, rạ trong môi trường yếm khí (tức là môi trường cháy không có ô xi, với phương pháp đốt này sẽ hạn chế được 95% đến 98% khói, bụi mịn như CO, CO2, CH4… đây là những chất, khói, khí gây nên hiện tượng hiệu ứng nhà kính và làm ô nhiễm không khí ở địa phương sau mỗi vụ mùa thu hoạch lúa.
Sau các bước trên thì chúng ta tiến hành cải tiến bề mặt sân bê tông theo các bước. Bước 1: Làm sạch bề mặt sân bê tông; Bước 2: Trộn xi măng với than rơm, rạ đã xay mịn có kích thước tương đương hạt xi măng theo đúng tỉ lệ 3 xi măng, 1 than về mặt khối lượng để đảm bảo không bị bong chóc trong quá trình thu gom muối; Bước 3: Hòa xi măng và than rơm, rạ đã xay mịn với một lượng nước vừa phải, dùng chổi nhúng vào rồi quét lên bề mặt sân bê tông; Bước 4: Để mặt sân bê tông khô sau khoảng 12 tiếng, sau đó rửa sạch bề mặt sân bê tông và đo nhiệt độ ở bề mặt sân bê tông.
![]() |
Cải tiến bề mặt sân bê tông theo tỉ lệ |
![]() |
Chưa kết tinh (ô đối chứng) |
![]() |
Bắt đầu kết tinh (ô thực nghiệm) |
Đo độ mặn của ô làm thực nghiệm
TT | Nhiệt độ trung bình môi trường (0C) | Nhiệt độ mặt sân bê tông đối chứng (0C) | Nhiệt độ mặt sân đối thực nghiệm (0C) |
1 | 36 | 37,5 | 39 |
2 | 37 | 39,5 | 42,5 |
3 | 38 | 41 | 45 |
Bảng số liệu số 2 cho thấy, khả năng hấp thụ nhiệt của bề mặt sân bê tông màu đen tốt hơn so với bề mặt sân bê tông truyền thống màu bạc. Khi nhiệt độ môi trường càng cao thì mức độ chênh lệch nhiệt độ giữa hai bề mặt sân bê tông càng xa; Bước 5: Đổ cùng lượng nước muối lên hai sân bê tông, theo dõi tốc độ bay hơi nước và quá trình kết tinh.
Bảng 3: Tốc độ bay hơi nước của ô đối chứng và ô thực nghiệm
TT | Nhiệt độ trung bình môi trường (0C) |
Lượng nước đổ vào (lít) |
Thời gian bắt đầu | Thời gian cạn hết nước | |
Ô đối chứng | Ô thực nghiệm | ||||
1 | 36 | 25 | 6 giờ sáng | 4h30’ | 3h15’ |
2 | 37 | 30 | 6 giờ sáng | 4h15’ | 2h45’ |
3 | 38 | 40 | 6 giờ sáng | 4h45’ | 2h30’ |
Phân tích số liệu bảng 3
Số liệu bảng 3 cho thấy, với cùng một lượng nước muối đổ vào thì tốc độ bay hơi nước của ô có bề mặt màu đen nhanh hơn ô có bề mặt màu bạc truyền thống, điều đó chứng tỏ khi nhiệt độ bề mặt cao hơn thì tốc độ bay hơi nước của nước muối nhanh hơn; Bước 6: Thay đổi lượng nước muối đưa vào ô thực nghiệm, cân lượng muối thu được ở hai ô thực nghiệm và đối chứng trong cùng điều kiện nhiệt độ và thời gian.
TT |
Nhiệt độ trung bình môi trường |
Thời gian bay hơi (giờ) |
Độ mặn (độ) | Ô đối chứng | Ô thực nghiệm | ||
Lượng nước muối (lít) | Lượng muối (kg) | Lượng nước muối (lít) | Lượng muối (kg) | ||||
1 | 36 | 11(6h-16h) | 15 | 25 | 5,5 | 30 | 6,5 |
2 | 37 | 11(6h-16h) | 15 | 30 | 6,4 | 38 | 8,16 |
3 | 38 | 11(6h-16h) | 15 | 35 | 7,5 | 46 | 10,02 |
Phân tích số liệu bảng 4
Số liệu bảng 4 cho thấy khi chúng ta cố định về thời gian và ở một khoảng nhiệt độ nhất định, để cho lượng nước trong hai ô cạn ở mức độ như nhau đảm bảo cho quá trình thu gom muối ăn thì lượng nước muối cần đổ vào ô thực nghiệm nhiều hơn ô đối chứng. Lượng muối thu được trong ô thực nghiệm năng suất tăng từ 20% đến 30% so với ô đối chứng; Về chất lượng muối ở ô thực nghiệm đóng to hơn, trắng hơn so với muối trên bề mặt sân bê tông truyền thống màu bạc, chất lượng an toàn là muối sạch đã được kiểm định của các cơ quan chứng năng.
![]() |
Phiếu kiểm nghiệm mẫu muối ăn |
Thành công của sáng kiến đã được hợp tác xã muối Quảng Phú đón nhận. Với tư cách là tác giả ý tưởng, chúng tôi đã phối hợp với hợp tác xã trong việc áp dụng, triển khai nhân rộng mô hình. Giám đốc hợp tác xã muối Quảng Phú Lê Phú Đức cho biết: “Thông qua hoạt động ký kết, Hợp tác xã mong muốn nhân rộng phương pháp cải tiến bề mặt sân bê tông từ nguồn than rơm, rạ tận dụng từ phụ phẩm nông nghiệp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tăng năng suất muối, góp phần cải thiện thu nhập cho bà con nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển bền vững”.