![]() |
Ảnh minh họa. |
Tín hiệu cảnh báo từ sự sụt giảm xuất khẩu
Theo thống kê, từ năm 2015 đến năm 2024, diện tích sầu riêng cả nước đã tăng từ 32.000 ha lên gần 179.000 ha, tức tăng hơn 5,5 lần chỉ trong 9 năm. Cùng với đó, sản lượng cũng tăng từ 588 nghìn tấn năm 2020, lên hơn 1,5 triệu tấn vào năm 2024, tăng 2,6 lần chỉ sau 4 năm.
Tỉnh Đắk Lắk đã vươn lên đứng đầu cả nước với 38.800 ha sầu riêng, chiếm 21,7% tổng diện tích toàn quốc. Với quy mô như hiện tại, sản lượng sầu riêng tại Đắk Lắk ước đạt khoảng 300.000 – 350.000 tấn mỗi năm, chưa kể lượng cây mới trồng sẽ cho trái trong những năm tới.
Tuy nhiên, theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sụt giảm đáng kể cả về khối lượng lẫn giá trị. Đây là tín hiệu cảnh báo rõ ràng về sự mất cân đối giữa tốc độ mở rộng vùng trồng và năng lực quản lý, kiểm soát chất lượng đầu ra. Khi Trung Quốc bất ngờ áp dụng quy định siết chặt kiểm nghiệm, yêu cầu tất cả các lô sầu riêng phải có kết quả kiểm tra âm tính với Cadimi (Cd) và chất nhuộm công nghiệp Vàng O. Hệ quả kim ngạch xuất khẩu sầu riêng Việt Nam giảm tới 74%, từ hơn 227 triệu USD xuống còn 58,7 triệu USD; sản lượng giảm 71,3%.
Tại hội nghị Phát triển ngành hàng sầu riêng bền vững tại Đắk Lắk mới đây, Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi Trường Đỗ Đức Duy thẳng thắn chỉ rõ: Việc sụt giảm quy mô và thu nhập xuất khẩu Sầu riêng thời gian qua là tín hiệu cảnh báo về sự mất cân đối giữa tăng trưởng sản xuất và năng lực tổ chức sản xuất, giữa yêu cầu ngày càng cao của thị trường xuất khẩu với khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước, nhất là chất lượng.
“Nếu không kịp thời có những giải pháp căn cơ, bài bản, đồng bộ, chúng ta sẽ phải đối mặt với vòng xoáy tiêu cực, dư thừa sản lượng, giá thành sụt giảm, mất thị trường và nghiêm trọng hơn là suy giảm niềm tin của khách hàng và uy tín của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững ngành trái cây xuất khẩu” Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chia sẻ.
Mặt khác, việc mở rộng diện tích ồ ạt, chạy theo cơn “sốt giá” thị trường, khiến không ít vùng trồng chưa đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, chưa được cấp mã số vùng trồng và thiếu liên kết chuỗi ổn định. Nhiều lô hàng bị từ chối do tồn dư hóa chất vượt ngưỡng, chưa đảm bảo quy trình sơ chế, đóng gói. Hệ quả là niềm tin của thị trường nhập khẩu, đặc biệt là Trung Quốc có nguy cơ bị suy giảm, kéo theo thiệt hại lớn cho cả ngành Sầu riêng.
Chia sẻ về thực trạng này, ông Mai Huyệch, một hộ trồng sầu riêng tại xã ĐắkR’Moan (Đắk Nông) cho biết: Lúc đầu nghe thương lái Trung Quốc đặt hàng nhiều, nhà tôi với mấy hộ xung quanh tranh thủ trồng thêm mấy chục cây, cũng nghĩ tới lúc thu là có tiền liền. Ai ngờ giờ thì rớt giá, rồi nghe nói kiểm tra chất cadimi, chẳng ai giải thích rõ, dân mình thì chưa quen mấy cái đó”
![]() |
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy (thứ ba từ phải qua) khảo sát vùng trồng sầu riêng tại Đắk Lắk, ngày 24/5/2025. |
Những tín hiệu khả quan
Dù đối mặt thách thức, ngành sầu riêng vẫn có nhiều tín hiệu tích cực, theo đó, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) vừa phê duyệt thêm 829 vùng trồng cùng 131 cơ sở đóng gói, nâng tổng số vùng trồng và cơ sở đóng gói sầu riêng được phép xuất khẩu sang Trung Quốc lên 1.369 vùng trồng và 188 cơ sở. Đây là kết quả tích cực từ quá trình đàm phán và chuẩn hóa sản xuất của các địa phương trọng điểm.
Tuy nhiên, để tận dụng được “cánh cửa vàng” này, ngành hàng sầu riêng cần tiếp tục siết chặt kỷ cương sản xuất bằng cách: quy hoạch lại vùng trồng theo hướng tập trung và bền vững; nâng cao chất lượng trái, tránh thu hoạch non; đầu tư mạnh vào công nghệ bảo quản, chế biến sâu; hoàn thiện hệ thống kiểm nghiệm đạt chuẩn quốc tế; và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nhằm giảm phụ thuộc vào Trung Quốc. Đồng thời, cần xây dựng thương hiệu quốc gia, minh bạch truy xuất nguồn gốc và tăng cường liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp chính quyền địa phương.Việc được cấp mã vùng trồng không có nghĩa là sẽ giữ được mãi. Nếu chất lượng sản phẩm không được kiểm soát nghiêm ngặt, quy trình canh tác không đảm bảo an toàn sinh học, thì nguy cơ bị rút lại mã số, thậm chí bị cấm cửa là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Nhằm đối phó kịp thời với tình trạng trên, ngày 23/5/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện số 71 về một số nhiệm vụ trọng tâm thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu sầu riêng. Trong đó, việc thực hiện các giải pháp chiến lược quan trọng: trong đó tập trung đánh giá thực trạng tăng trưởng nóng, nhận diện các rủi ro về môi trường, đất đai, an toàn sinh học nếu không có công cụ điều tiết hợp lý. Nâng cao năng lực truy xuất, kiểm nghiệm và kiểm dịch, đây là điểm yếu cố hữu của chuỗi giá trị nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Thiết lập mô hình liên kết chuỗi giá trị bền vững, từ sản xuất đến tiêu thụ, có ràng buộc trách nhiệm rõ ràng giữa Nông dân – Hợp tác xã – Doanh nghiệp. Học hỏi kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là Thái Lan và Malaysia trong quản lý vùng trồng và đa dạng hóa sản phẩm. Phát triển chế biến sâu, gia tăng giá trị thay vì phụ thuộc vào xuất thô trái tươi. Đẩy nhanh việc ban hành Thông tư hướng dẫn mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, coi đây là “hạ tầng mềm” bắt buộc đối với ngành hàng trái cây xuất khẩu của Việt Nam.
Trồng Sầu riêng hữu cơ: Con đường dài nhưng cần thiết
Phát triển ngành sầu riêng bền vững rất cần tiếp cận mô hình canh tác hữu cơ hoặc tối thiểu là theo hướng hữu cơ. Đây không chỉ là yêu cầu từ người tiêu dùng, mà còn là xu hướng tất yếu khi các thị trường xuất khẩu trọng điểm như EU, Hàn Quốc, Nhật Bản và chính Trung Quốc ngày càng siết chặt dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và truy xuất nguồn gốc rõ ràng.
Việc nông dân, hợp tác xã và các doanh nghiệp trồng, xuất khẩu sầu riêng cần quy trình sản xuất sạch không hóa chất độc hại, hay sử dụng phân bón sinh học, kiểm soát tốt dịch hại và môi trường vùng trồng là nhiệm vụ then chốt để sầu riêng Việt Nam không chỉ “có mặt” mà còn “có chỗ đứng” trong chuỗi cung ứng nông sản an toàn ra bản đồ thế giới.
Ông Mai Đình Thọ, Chủ tịch HĐQT HTX Dịch vụ nông nghiệp sạch, xã Ea Yông, huyện Krông Pắc, (Đắk Lắk) cho biết, kiên trì và nhìn xa hơn vào tương lai, lợi ích của mô hình sầu riêng hữu cơ sẽ dần được khẳng định. Sầu riêng khi trồng hữu cơ có khả năng phát triển bền vững hơn, đất trồng cũng được phục hồi, giúp cây sầu riêng có tuổi thọ cao hơn và trái đạt chất lượng tốt hơn”
Kinh nghiệm từ nhiều ngành hàng trước đây cho thấy, khi thị trường có dấu hiệu hấp dẫn, làn sóng đầu tư tự phát sẽ nở rộ. Nhưng nếu thiếu sự quản lý vùng trồng, thiếu ràng buộc pháp lý và thiếu kế hoạch, chiến lược phát triển thị trường thì sự bùng nổ sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa, phá giá và thiệt hại cho chính người nông dân.
Sầu riêng là cây trồng dài ngày, đầu tư lớn, rủi ro cao do đó, càng cần quy hoạch kỹ, kiểm soát chặt và phát triển theo chiều sâu. Đặc biệt, khi hướng tới tiêu chuẩn hữu cơ hoặc hữu cơ chuyển đổi, thời gian chuẩn hóa càng dài, chi phí càng lớn, nhưng giá trị thu được sẽ ổn định và bền vững hơn rất nhiều.
Sầu riêng là niềm tự hào mới của nông nghiệp Việt Nam. Nhưng để trái sầu riêng Việt có thể “chín ngọt” ở những thị trường khó tính nhất thế giới, cần thay đổi tư duy từ “phát triển theo phong trào” sang “phát triển có trách nhiệm”.
Tái cấu trúc ngành hàng sầu riêng theo hướng hữu cơ, liên kết bền vững và đảm bảo quyền lợi công bằng cho nông dân chính là chìa khóa để sầu riêng không chỉ là cây trồng làm giàu, mà còn là biểu tượng của một nền nông nghiệp xanh, hiện đại và hội nhập bền vững quốc tế./.