Thứ tư 04/06/2025 01:32Thứ tư 04/06/2025 01:32 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: toasoan@tapchihuucovietnam.vn

Tag

Phát triển chè hữu cơ ở Thái Nguyên

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Trong tình hình người tiêu dùng rất lo ngại về thực phẩm không an toàn hiện nay, việc phát triển nông nghiệp hữu cơ (NNHC) là bước đi cần thiết và kịp thời cho nông nghiệp Việt Nam.
Phát triển chè hữu cơ ở Thái Nguyên
Vùng Chè đạt tiêu chuẩn hữu cơ tại THT Sản xuất chè Hữu cơ Sông Cầu (huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên).

Nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước 2 thách thức vô cùng to lớn đó là an toàn vệ sinh thực phẩm và biến đổi khí hậu (BĐKH). Nếu BĐKH bắt buộc chúng ta phải triển khai nhanh một nền nông nghiệp thích ứng với môi trường mà cốt lõi là thay đổi cơ cấu cây trồng và phương pháp canh tác thích hợp với điều kiện mới do các yếu tố khí hậu, thời tiết thay đổi theo hướng cực đoan, thì thực phẩm không an toàn sẽ đem đến nhiều hệ lụy trầm trọng hơn vì đây là nguyên nhân phá hủy môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của nhiều thế hệ con cháu mai sau. Trong tình hình người tiêu dùng rất lo ngại về thực phẩm không an toàn hiện nay, việc phát triển Nông nghiệp hữu cơ (NNHC) là bước đi cần thiết và kịp thời cho nông nghiệp Việt Nam.

Tình hình sản xuất chè hữu cơ ở Thái Nguyên

Thái Nguyên là địa phương có nhiều tiềm năng, thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, trong đó chè được xác định là cây trồng chủ lực có giá trị kinh tế cao. Năm 2024, tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng được vùng sản xuất chè nguyên liệu với quy mô lớn gần 22.500 ha, sản lượng chè búp tươi đạt trên 267,5 nghìn tấn/năm, giá trị sản phẩm chè đạt 12,3 nghìn tỷ đồng. Tỉnh Thái Nguyên đã xác lập được quyền sở hữu trí tuệ đối với 13 sản phẩm chè bao gồm 1 chỉ dẫn địa lý, 10 nhãn hiệu tập thể và 2 nhãn hiệu chứng nhận. Nhãn hiệu tập thể “Chè Thái Nguyên” đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam và được bảo hộ tại 6 quốc gia và vùng lãnh thổ: Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan đã tạo ra rất nhiều cơ hội để sản phẩm chè Thái Nguyên phát triển cả về giá trị, chất lượng, uy tín thương hiệu và có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế.

Trong đề án “Phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030” đã xác định Chè là sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh với các chỉ tiêu: diện tích chè đến năm 2025 là 23.500 ha (trong đó có 235 ha được cấp chứng nhận theo tiêu chuẩn hữu cơ, chiếm 1,0% diện tích) và đến năm 2030 là 24.500 ha (trong đó có 500 ha đạt tiêu chuẩn hữu cơ, chiếm 2,0% diện tích).

Thái Nguyên là tỉnh đầu tiên trong cả nước đã thực hiện sản xuất chè hữu cơ tại xã Tức Tranh, huyện Phú Lương từ những năm 1990 do các tổ chức NGO tài trợ nhưng ở quy mô nhỏ nên không phát triển. Từ năm 2020 đến nay, thực hiện phong trào sản xuất Nông nghiệp hữu cơ do Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam phát động, tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư sản xuất và tích cực vận động nông dân chuyển đổi diện tích chè đã đạt tiêu chuẩn VietGAP sang sản xuất theo tiêu chuẩn trồng trọt hữu cơ (TCVN 11041 – 2/2017). Với sự vào cuộc quyết liệt của các sở, ngành, các cấp chính quyền từ tỉnh, huyện đến cấp xã và sự đồng tình của người làm chè trên địa bàn tỉnh, đến năm 2024, diện tích chè đã được cấp chứng nhận VietGAP có 5140ha (chiếm 22,5%) và diện tích đã được cấp chứng nhận hữu cơ là 110ha (chiếm gần 0,5% so với tổng diện tích chè). Có thể nói đây là một trong những thành công nổi bật của ngành chè Thái Nguyên trong việc chuyển đổi nhận thức và phương thức canh tác của người làm chè theo áp dụng quy trình sản xuất an toàn, hữu cơ gắn với ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong các khâu sản xuất chè nguyên liệu, chế biến, thực hiện chuyển đổi số, truy xuất nguồn gốc và quảng bá, tiêu thụ sản phẩm.

Với 14 đơn vị thực hiện trên diện tích 110 ha chè đạt tiêu chuẩn hữu cơ và có sự tham gia của 349 hộ nông dân ở các THT, HTX và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã là những mô hình sản xuất chè có hiệu quả. Mặc dù trong giai đoạn chuyển đổi từ sản xuất thông thường sang sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, người sản xuất còn nhiều bỡ ngỡ, năng suất, sản lượng chè năm đầu chuyển đổi có bị giảm sút, tuy nhiên bù lại giá của sản phẩm được nâng cao 30 – 50%, đặc biệt sau thời gian chuyển đổi, cây chè được sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh, phân hữu cơ tự chế biến… đã hồi phục, đất được cải tạo, mầu mỡ hơn, chất lượng chè được nâng cao và được tiêu thụ với giá cao hơn. Điều đó đã mang lại sự tin tưởng về phương thức canh tác bền vững của người dân trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ và mức độ tiêu thụ sản phẩm chè hữu cơ Thái Nguyên ngày càng nhiều trên thị trường trong nước.

Những thuận lợi, khó khăn, thách thức trong sản xuất chè hữu cơ ở Thái Nguyên

Thuận lợi và cơ hội

Kết quả đạt được sau 4 năm thực hiện sản xuất chè hữu cơ của tỉnh tuy còn hạn chế nhưng đó là sự chuyển đổi to lớn về nhận thức và phương thức canh tác của người làm chè Thái Nguyên. Để có được kết quả trên là do các yếu tố thuận lợi như sau:

- Cây chè gắn bó với người dân Thái Nguyên từ lâu đời, người dân có kinh nghiệm và truyền thống làm chè, nhất là trước đây là có thời gian dài chè là cây vườn nhà, phù hợp với canh tác hữu cơ. Cây chè có khả năng thích ứng rộng nên được trồng ở cả 9/9 huyện, thành phố của tỉnh Thái Nguyên. Nhiều vùng chè của Thái Nguyên có diện tích tương đối tập trung: Huyện Đại Từ, huyện Phú Lương, huyện Đồng Hỷ, huyện Định Hóa và TP. Thái Nguyên, nên dễ khoanh vùng, tạo vùng cách ly để có thể chuyển đổi từ sản xuất thông thường sang sản xuất hữu cơ.

- Đã có nhiều chính sách thúc đẩy NNHC: Chỉnh phủ đã có Nghị định 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 về “Nông nghiệp hữu cơ” và Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020 phê duyệt đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030” và đã có các tiêu chuẩn quốc gia: TCVN 11041 -2: 2017 về Trồng trọt hữu cơ và TCVN 11041 -6: 2018 về Chè Hữu cơ. Đồng thời tỉnh Thái Nguyên đã có đề án “Phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó có các nội dung và chính sách hỗ trợ cho phát triển chè hữu cơ.

- Khoa học công nghệ trong chọn tạo, nhân giống, sản xuất, chế biến chè hữu cơ ngày càng phát triển, nhất là tạo ra các vật tư đầu vào phục vụ cho canh tác chè đạt tiêu chuẩn hữu cơ trong nước và quốc tế. Do vậy công tác giống và kỹ thuật canh tác chè hữu cơ ở Thái Nguyên đã được nghiên cứu và ứng dụng: Sử dụng các bộ giống thích hợp cho sản xuất chè hữu cơ: Trung Du, LDP1,TRI777, các giống chè nhập nội chất lượng tốt đã được trồng lâu năm và thích nghi ở Thái Nguyên; các công nghệ tưới, che sáng, sử dụng phân hữu cơ sinh học thay thể cho phân khoáng, sử dụng nấm đối kháng, các chế phẩm sinh học… để phòng trừ sâu bệnh hại, đám bảo cho chất lượng sản phẩm chè hữu cơ và tính toàn vẹn của canh tác hữu cơ.

- Trước đây, tỉnh Thái Nguyên đã từng có các mô hình sản xuất chè hữu cơ với các hình thức tổ chức khác nhau: hộ gia đình, THT, doanh nghiệp thực hiện canh tác hữu cơ và được chứng nhận hữu cơ của các tổ chức chứng nhận quốc tế: IFOAM, ACT tạo tiền đề và cơ sở thực tiễn cho việc chuyển đổi sản xuất chè hữu cơ thành công.

- Hiện nay tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và chuẩn OCOP (3 – 5 sao) có giá trị và đã được thị trường biết đến, là điều kiện thuận lợi để có thể chuyển cấp sản phẩm sang sản phẩm chè Hữu cơ.

- Chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chè hữu cơ bước đầu được hình thành (18 chuỗi) với các tác nhân có trách nhiệm với sản phẩm hữu cơ tham gia, tạo điều kiện cho các sản phẩm chè hữu cơ có chỗ đứng trên thị trường nội địa và xuất khẩu.

- Sản phẩm chè hữu cơ có tiềm năng để đa dạng hóa sản phẩm, tạo các sản phẩm mới thích hợp với nhiều thị trường, nhiều ngành hàng: chè matcha, chè dược liệu…

Khó khăn và thách thức

Nhận thức về canh tác hữu cơ và sản phẩm chè hữu cơ còn hạn chế ở cả người sản xuất và nhà quản lý.

Quy mô sản xuất chè chủ yếu là hộ gia đình, nhiều vườn chè phân tán, xen kẽ với khu dân cư nên khó khăn cho việc tạo vùng sản xuất quy mô lớn, vùng cách ly, dẫn đến tính “Toàn vẹn hữu cơ” không đảm bảo trong sản xuất, thu hoạch và chế biến.

Năng suất và sản lượng chè khi chuyển đổi sang canh tác hữu cơ bị sụt giảm (30 – 40% so với sản xuất thông thường), mẫu mã sản phẩm chè kém (nhất là đối với dòng sản phẩm chè búp, chè nõn, chè đinh – là loại tiêu thụ chính trên thị trường nội địa), dẫn đến ảnh hưởng đến thu nhập của người sản xuất.

Người tiêu dùng chưa tin tưởng và khó phân biệt giữa sản phẩm sản xuất hữu cơ và các sản phẩm thông thường khác;

Nhân sự được đào tạo và có kinh nghiệm về sản xuất Nông nghiệp hữu cơ chưa nhiều.

Hạ tầng phụ trợ (chứng nhận, xúc tiến thương mại, cơ chế đầu tư, dịch vụ đầu vào cho sản xuất hữu cơ…) còn hạn chế.

Đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng về chất lượng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm.

Rào cản thương mại về chất lượng sản phẩm chè hữu cơ trong nước và trên thế giới ngày càng khắt khe gây khó khăn cho tiêu thụ và xuất khẩu.

Yêu cầu về chứng nhận Hữu cơ quốc tế đối với các sản phẩm chè theo các tiêu chuẩn JAS, IFOAM, EU, USDA… rất chặt chẽ.

Các giải pháp trong phát triển chè hữu cơ trong thời gian tới

Chè là thức uống hàng ngày của người Việt, do vậy yêu cầu về sản phẩm sạch, an toàn, chất lượng lại càng cần thiết, các giải pháp chính trong phát triển sản xuất chè hữu cơ nói chung và chè hữu cơ của Thái Nguyên nói riêng là:

- Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức chung của toàn xã hội về vai trò của sản xuất và sử dụng sản phẩm chè hữu cơ, từ đó thay đổi hành vi, có thói quen áp dụng sản xuất hữu cơ, sử dụng sản phẩm hữu cơ; thực hiện từng bước vững chắc, xây dựng mô hình điểm và nhân rộng.

- Các địa phương có điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất và chế biến chè hữu cơ cần lựa chọn và xác định đối tượng (giống chè) và vùng sản xuất chè hữu cơ (nên lựa chọn các giống chè đã được chọn tạo phù hợp với điều kiện của địa phương, chọn các vùng ít bị tác động bởi quá trình canh tác thâm canh, dễ cách ly)… để tổ chức thực hiện các mô hình sản xuất chè hữu cơ, lồng ghép sản xuất chè hữu cơ với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.

- Bản thân các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, nông dân cần tư duy, đầu tư xây dựng và thực hiện các dự án, mô hình sản xuất và chế biến chè hữu cơ theo chuỗi giá trị phù hợp quy hoạch và đặc thù địa phương, trong đó doanh nghiệp phải trở thành nòng cốt dẫn dắt, đa dạng hóa nhiều sản phẩm chè hữu cơ mang lại hiệu quả kinh tế cao; chú trọng thực hiện theo tiêu chuẩn trong sản xuất, chế biến sản phẩm chè hữu cơ, đảm bảo chất lượng; chủ động trong xúc tiến thương mại, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chè hữu cơ.

- Nhà nước có chính sách và đầu tư có trọng tâm khoa học và công nghệ trong sản xuất và chế biến chè hữu cơ: như đào tạo nguồn nhân lực, các đề tài, dự án, chương trình khoa học có tính ứng dụng cao như công nghệ sinh học trong sản xuất chè hữu cơ, nghiên cứu quy trình canh tác, chế biến phù hợp; nghiên cứu các vật tư đầu vào phục vụ cho canh tác và chế biến chè hữu cơ: phân bón sinh học, thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Nghiên cứu chọn tạo giống chè mới có năng suất, chất lượng cao, có khả năng chống chịu với dịch hại tốt, phù hợp với quy trình canh tác hữu cơ và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Phát triển nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu, được thể hiện rõ trong Quyết định số 150/QĐ-Ttg ngày 28/01/2022 về Phê duyệt “Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” là “… Sản xuất nông nghiệp có trách nhiệm, hiện đại, hiệu quả và bền vững; phát triển nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, phát thải các-bon thấp, thân thiện với môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu”. Thực hiện chiến lược này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong sản xuất chè, bảo vệ sức khỏe của người sản xuất và người tiêu dùng, tạo môi trường sinh thái, nâng cao thương hiệu sản phẩm “chè Thái Nguyên” ở trong nước và quốc tế.n

Bài liên quan

Sản lượng chè búp tươi tại Thái Nguyên vượt kế hoạch

Sản lượng chè búp tươi tại Thái Nguyên vượt kế hoạch

Số liệu thống kê cho thấy, hơn 3 tháng qua, sản lượng chè búp tươi của tỉnh Thái Nguyên ước đạt 62.700 tấn, vượt 39% kế hoạch đề ra.
Thái Nguyên hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát trước 8 tháng so với kế hoạch

Thái Nguyên hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát trước 8 tháng so với kế hoạch

Với việc hỗ trợ xây mới 1.221 nhà, sửa chữa 617 nhà, tỉnh Thái Nguyên đã hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát cho 1.838 hộ nghèo, hộ cận nghèo, đạt 100% kế hoạch, về đích trước kế hoạch 8 tháng so với thời hạn Thủ tướng Chính phủ quy định và là một trong 3 tỉnh tiên phong hoàn thành sớm nhất cả nước.
Thái Nguyên dự kiến cấp mã số vùng trồng cho 3.000ha cây trồng

Thái Nguyên dự kiến cấp mã số vùng trồng cho 3.000ha cây trồng

Theo dự kiến trong năm 2025 tỉnh Thái Nguyên sẽ cấp mã số vùng trồng cho 3.000ha cây trồng các loại, riêng đối với sản phẩm chủ lực là cây chè tỉnh này phấn đấu đến năm 2030 sẽ có 24.000ha chè, trong đó 70% diện tích được cấp mã số vùng trồng.
Vai trò của đội ngũ trí thức đối với chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Vai trò của đội ngũ trí thức đối với chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng. Và xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn của toàn xã hội cũng như trong cộng đồng dân cư nông thôn.
Đại Từ (Thái Nguyên): Phát triển chè hữu cơ, nâng tầm giá trị  sản phẩm

Đại Từ (Thái Nguyên): Phát triển chè hữu cơ, nâng tầm giá trị sản phẩm

Hội nghị tổng kết ngành chè Đại Từ năm 2024 khẳng định vị thế "Tứ đại danh trà" với giá trị sản phẩm đạt 3.200 tỷ đồng, đồng thời đề ra phương hướng phát triển chè hữu cơ, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, xây dựng thương hiệu và liên kết chuỗi giá trị.
Chè Tân Cương Thái Nguyên: Hương vị tinh túy của đất trời

Chè Tân Cương Thái Nguyên: Hương vị tinh túy của đất trời

Chè Tân Cương Thái Nguyên từ lâu đã vang danh khắp cả nước, trở thành một biểu tượng văn hóa và niềm tự hào của người dân nơi đây. Không chỉ đơn thuần là một thức uống, chè Tân Cương còn chứa đựng trong mình cả một câu chuyện về lịch sử, truyền thống và tinh hoa của vùng đất trung du. Hương vị đặc trưng, đậm đà của chè Tân Cương đã chinh phục biết bao người yêu trà, và ngày càng khẳng định vị thế trên thị trường trong nước và quốc tế.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Vấn nạn "thực phẩm bẩn": Thực tiễn và giải pháp

Vấn nạn "thực phẩm bẩn": Thực tiễn và giải pháp

Hiện nay, thực phẩm bẩn là một trong những "thủ phạm" được cho là liên quan đến tỷ lệ người bị ung thư ngày càng tăng cao đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Nông nghiệp hữu cơ có gì khác với nông nghiệp thông thường?

Nông nghiệp hữu cơ có gì khác với nông nghiệp thông thường?

Sản xuất “hữu cơ” từ lâu đã được hiểu như một hình thức sản xuất “lành mạnh và thân thiện với môi trường”. Sản phẩm hữu cơ được sản xuất mà không sử sụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật hoá học.
[Longform] Kỳ 3: Chứng nhận hữu cơ - Giấy thông hành hay bình phong?

[Longform] Kỳ 3: Chứng nhận hữu cơ - Giấy thông hành hay bình phong?

Tại một phiên chợ nông sản ở Hà Nội, một gian hàng trưng biển “rau hữu cơ đạt chuẩn USDA” thu hút đông đảo người tiêu dùng. Tuy nhiên, khi được hỏi về giấy chứng nhận, nhân viên bán hàng chỉ đưa ra một bản photocopy mờ nhòe, không mã QR, không có tên tổ chức cấp phép. Câu chuyện không hiếm. Trong khi giấy chứng nhận hữu cơ đáng lẽ là bảo chứng cho uy tín và chất lượng, thì ở nhiều nơi, nó đang trở thành “tấm bình phong” được sử dụng sai mục đích – thậm chí bị thương mại hóa.
Phải tuyên chiến quyết liệt trước nạn hàng giả

Phải tuyên chiến quyết liệt trước nạn hàng giả

Nạn làm hàng giả, đặc biệt là thực phẩm, đang là một vấn nạn nhức nhối trên toàn cầu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, thiệt hại kinh tế và làm xói mòn niềm tin của người tiêu dùng. Để giải quyết triệt để vấn đề này, cần có sự vào cuộc và chịu trách nhiệm của nhiều bên liên quan, từ nhà sản xuất, cơ quan quản lý nhà nước, người bán hàng cho đến chính người tiêu dùng.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về đo lường, chất lượng hàng hóa

Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về đo lường, chất lượng hàng hóa

Hoạt động kiểm tra nhà nước về đo lường và chất lượng hàng hóa giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thúc đẩy cạnh tranh công bằng và bảo đảm sự minh bạch trong giao thương hàng hóa. Việc triển khai kiểm tra định kỳ các cơ sở kinh doanh nhằm đảm bảo tính chính xác của các phép đo lường, ngăn chặn sản phẩm hàng hóa kém chất lượng, gian lận trong kinh doanh và thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.
Cách người Đức quan tâm, đối xử với đất màu canh tác

Cách người Đức quan tâm, đối xử với đất màu canh tác

Đức nổi tiếng với sự coi trọng và quản lý đất đai một cách cẩn trọng, và điều này thể hiện rõ trong cách họ đối xử với đất màu (Ackerboden). Với lịch sử lâu đời về nông nghiệp và nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của đất đối với an ninh lương thực và môi trường, người Đức đã phát triển một loạt các phương pháp và quy định nhằm bảo vệ và duy trì độ phì nhiêu của đất.
[Longform] KỲ 2: Nông dân "trong mê cung" giấy chứng nhận hữu cơ: Lựa chọn nào phù hợp?

[Longform] KỲ 2: Nông dân "trong mê cung" giấy chứng nhận hữu cơ: Lựa chọn nào phù hợp?

Để được cấp giấy chứng nhận hữu cơ là cả một hành trình gian nan mà chỉ các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ mới nắm được.
Hành động quyết liệt để phát triển bền vững ngành hàng sầu riêng

Hành động quyết liệt để phát triển bền vững ngành hàng sầu riêng

Ngày 24/5, tại thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk), Bộ Nông nghiệp và Môi trường, UBND tỉnh Đắk Lắk tổ chức Hội nghị “Phát triển ngành hàng sầu riêng bền vững” nhằm tổng kết tình hình sản xuất, xuất khẩu; đánh giá những thuận lợi, khó khăn và bàn các giải pháp tháo gỡ để thúc đẩy phát triển ngành hàng sầu riêng một cách bền vững, ổn định và hiệu quả. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy và Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk Nguyễn Thiên Văn dự và đồng chủ trì Hội nghị.
Tín dụng xanh là "dòng máu" nuôi sự phát triển kinh tế tư nhân

Tín dụng xanh là "dòng máu" nuôi sự phát triển kinh tế tư nhân

Trong cơ thể nền kinh tế, khu vực tư nhân đóng vai trò như một trái tim năng động, không ngừng bơm máu đi nuôi dưỡng mọi tế bào. Và để trái tim ấy hoạt động khỏe mạnh, nhịp nhàng, nguồn “máu” tín dụng đóng một vai trò sống còn. Tín dụng, dưới nhiều hình thức khác nhau, không chỉ là nguồn vốn đơn thuần mà còn là đòn bẩy, là chất xúc tác, thậm chí là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp tư nhân.
Đưa nông nghiệp hữu cơ về vùng sâu vùng xa, tiềm năng lớn nhưng còn nhiều trăn trở

Đưa nông nghiệp hữu cơ về vùng sâu vùng xa, tiềm năng lớn nhưng còn nhiều trăn trở

Trong những năm gần đây, nông nghiệp hữu cơ ngày càng được quan tâm như một hướng đi tất yếu của nền sản xuất nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường và bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Trước áp lực ngày càng lớn từ biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và nhu cầu tiêu dùng thực phẩm an toàn, mô hình sản xuất này được xem là giải pháp toàn diện. Tuy nhiên, tại nước ta, nông nghiệp hữu cơ vẫn đang trong giai đoạn phát triển ban đầu và chủ yếu tập trung ở các khu vực có điều kiện thuận lợi. Câu hỏi đặt ra là: liệu có thể đưa nông nghiệp hữu cơ về chiều sâu, vùng xa, những khu vực thường được xem là “vũng trũng” của phát triển nông nghiệp được không?
Xóa bỏ rào cản để kinh tế tư nhân phát triển

Xóa bỏ rào cản để kinh tế tư nhân phát triển

Kinh tế tư nhân, với sức sống mãnh liệt và khả năng thích ứng linh hoạt, luôn được xem là một động lực quan trọng, một trụ cột vững chắc cho sự phát triển bền vững của mọi nền kinh tế. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã khẳng định vai trò then chốt của kinh tế tư nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, để tiềm năng to lớn này được giải phóng và phát huy tối đa, việc quyết liệt xóa bỏ những rào cản đang kìm hãm sự phát triển của khu vực kinh tế này là một nhiệm vụ cấp bách và chiến lược.
"Vùng đất hứa" của nông nghiệp hữu cơ trên cao nguyên Lâm Viên

"Vùng đất hứa" của nông nghiệp hữu cơ trên cao nguyên Lâm Viên

Giữa cao nguyên Lâm Viên thơ mộng, nơi khí hậu mát mẻ quanh năm ôm trọn những đồi chè xanh mướt và những vườn rau quả trĩu quả, một cuộc cách mạng xanh đang âm thầm diễn ra. Lâm Đồng, với những lợi thế tự nhiên độc đáo và sự quyết tâm của chính quyền địa phương cùng người dân, đang dần khẳng định vị thế là tỉnh phát triển nông nghiệp hữu cơ tốt nhất Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở việc tạo ra những sản phẩm nông sản sạch, an toàn, Lâm Đồng còn đang xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp bền vững, hài hòa với thiên nhiên và mang lại giá trị kinh tế cao cho cộng đồng.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2024 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính